Chức năng thất trái là gì? Các công bố khoa học về Chức năng thất trái
Chức năng thất trái không tồn tại trong các ngôn ngữ hoặc hệ điều hành thông dụng. Tuy nhiên, thành ngữ "thất trái" có thể được hiểu là một tính từ dùng để miêu...
Chức năng thất trái không tồn tại trong các ngôn ngữ hoặc hệ điều hành thông dụng. Tuy nhiên, thành ngữ "thất trái" có thể được hiểu là một tính từ dùng để miêu tả sự không hiệu quả, không đúng đắn hoặc không thành công trong việc hoàn thành một nhiệm vụ hay mục tiêu nào đó.
Chức năng "thất trái" thường được sử dụng để diễn đạt tình trạng hoạt động, công việc hay kế hoạch không suôn sẻ, không đạt được kết quả như mong đợi hoặc không đáp ứng đúng nhu cầu hoặc mục tiêu ban đầu. Đây là một cụm từ phổ biến trong tiếng Việt để miêu tả sự thất bại, thất vọng, hay không thành công trong hoạt động hay công việc nào đó.
Ví dụ, ta có thể nói một dự án công nghệ thông tin đã "thất trái" nếu không thể đáp ứng các yêu cầu của khách hàng hoặc không hoạt động một cách chính xác và ổn định. Hoặc ta có thể sử dụng cụm từ "thất trái" để diễn đạt sự không thành công trong việc hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể, ví dụ: "Tôi đã cố gắng làm việc với anh ta nhưng cuối cùng, nỗ lực của tôi đã thất trái."
Tóm lại, chức năng "thất trái" thường được sử dụng để miêu tả sự không thành công, không đáng mong đợi, hoặc không đáp ứng nhu cầu trong một hoạt động hay công việc nào đó.
Chức năng "thất trái" là một thuật ngữ phổ biến trong tiếng Việt và có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Dưới đây là một số tình huống cụ thể mà chức năng "thất trái" có thể ám chỉ:
1. Với một sản phẩm hay dịch vụ:
- Sản phẩm thất trái: Sản phẩm không đáp ứng được chất lượng, tiêu chuẩn hoặc các yêu cầu cần thiết để sử dụng.
- Dịch vụ thất trái: Dịch vụ không đáp ứng được nhu cầu, không đạt được kết quả mong muốn hoặc không đảm bảo sự hài lòng từ phía khách hàng.
2. Với một dự án hay kế hoạch:
- Dự án thất trái: Dự án gặp trục trặc, không hoàn thành đúng tiến độ, không đạt được mục tiêu hoặc không đáp ứng kỳ vọng ban đầu.
- Kế hoạch thất trái: Kế hoạch không được triển khai hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu, hoặc không đạt được kết quả dự kiến.
3. Với một mục tiêu cá nhân:
- Mục tiêu thất trái: Không đạt được mục tiêu đề ra vì lí do nào đó, như thiếu kỹ năng, nỗ lực không đủ, hoặc không có tình hình thuận lợi để đạt được mục tiêu đó.
Tóm lại, chức năng "thất trái" có thể được áp dụng trong nhiều tình huống khác nhau để miêu tả sự không thành công, không đáp ứng được kỳ vọng hoặc không đạt được mục tiêu trong hoạt động, sản phẩm, dự án hay kế hoạch nào đó.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chức năng thất trái":
Tóm tắt Chúng tôi đã đánh giá khả năng của siêu âm tim kiểu M-mode và Doppler trong việc đánh giá chức năng của tâm thất trái (LV) một cách tin cậy và lặp lại trên chuột, đồng thời kiểm tra khả năng của các kỹ thuật này trong việc phát hiện những thay đổi sinh lý ở những con chuột thiếu hụt phospholamban (PLB). Chuột thí nghiệm thuộc chủng không đột biến (n=7) và chuột thiếu hụt PLB (n=8) đã được tiến hành nghiên cứu với siêu âm tim kiểu M-mode hai chiều và Doppler, sử dụng đầu dò hình ảnh 9 MHz và đầu dò Doppler 5-7.5 MHz. Dữ liệu được thu thập ở trạng thái bình thường và sau khi truyền isoproterenol qua ổ bụng (2.0 μg/g IP). Sự thay đổi và khả năng tái tạo của kết quả giữa các người dò và trong cùng một người dò rất tốt. Những con chuột thiếu hụt PLB cho thấy sự gia tăng đáng kể (P <0.05) trong một số thông số sinh lý (mean±SD) so với chuột đối chứng không đột biến: vận tốc trung bình của sự rút ngắn vòng tròn được chuẩn hóa (7.7±2.1 so với 5.5±1.0 vòng/sec), vận tốc lớn nhất của động mạch chủ (105±13 so với 75±9.2 cm/s), gia tốc trung bình của động mạch chủ (57±16 so với 31±4 m/s2), và vận tốc tối đa giai đoạn đầu của dòng máu qua van hai lá (80.0±7.2 so với 66.9±7.7 cm/s). Các kích thước LV, tỷ lệ rút ngắn, nhịp tim, vận tốc qua van hai lá giai đoạn cuối (A), và tỷ lệ giữa các vận tốc giai đoạn đầu và cuối (E/A) gần như tương tự ở cả hai nhóm. Việc sử dụng isoproterenol đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể ở các chỉ số Doppler của chức năng tâm thất ở nhóm chuột đối chứng nhưng không ở chuột thiếu hụt PLB. Các phát hiện này chỉ ra rằng việc đánh giá chức năng LV có thể được thực hiện không xâm lấn ở chuột dưới những điều kiện sinh lý khác nhau và PLB điều hòa chức năng LV cơ bản trong cơ thể sống.
Các yếu tố tăng trưởng giống insulin (IGFs) là những chất trung gian cho các hoạt động chuyển hóa và đồng hóa do hormone tăng trưởng kích thích, nhưng cũng điều chỉnh sự phát triển tế bào, biệt hóa và chết tế bào, đồng thời cho thấy những tác dụng tích cực trong thiếu máu cục bộ cơ tim cấp. Vì các tế bào gốc nội mô (EPCs) cải thiện chức năng cơ tim sau nhồi máu cơ tim cấp, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu xem việc biểu hiện quá mức IGF-2 trong các EPCs mở rộng (eEPCs) có góp phần cải thiện chức năng tâm thất trái sau nhồi máu cơ tim hay không. EPCs được tách chiết từ máu cuống rốn của người và được chuyển gen bằng một vector virus lùi biểu hiện IGF-2 (eEPCs IGF-2) hoặc chỉ vector. Mức độ biểu hiện đã được xác nhận bằng RT-PCR. Các eEPCs chỉ chuyển gen hoặc eEPCs IGF-2 đã được cấy ghép sau khi thắt động mạch vành trái xuống một con chuột nude không tuyến ức. Cấy ghép eEPCs đã cải thiện phân suất tống máu tâm thất trái sau 2 tuần. Việc biểu hiện quá mức IGF-2 đã cải thiện thêm phân suất tống máu tâm thất trái và giảm kích thước nhồi máu cơ tim. Phân tích miễn dịch mô học cho thấy có sự gia tăng số lượng tế bào phân chia và giảm số lượng tế bào đơn nhân cũng như tế bào cơ tim chết trong vùng nhồi máu sau khi cấy ghép eEPCs có biểu hiện IGF-2 quá mức. Cấy ghép eEPCs có biểu hiện IGF-2 quá mức trong trường hợp nhồi máu cơ tim cấp có thể cải thiện chức năng cơ tim sớm bằng cách tăng cường sự phát triển và hạn chế phản ứng viêm cũng như sự chết tế bào.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7